Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
106620

ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN 92 NĂM NGÀY THÀNH LẬP HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM (14/10/1930 - 14/10/2022)

Ngày 31/10/2022 09:05:20


HỘI ND HUYỆN HÀ TRUNG                                     CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM                       HỘI NÔNG DÂN XÃ HÀ LONG                                            Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

                     *                                                        

                                                                                              Hà Long; ngày 05  tháng 10  năm 2022

 

ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
92 NĂM NGÀY THÀNH LẬP HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM

(14/10/1930 - 14/10/2022)
 

I. SỰ RA ĐỜI NÔNG HỘI ĐỎ, TIỀN THÂN CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM

 Đầu năm 1920, sau khi dập tắt các cuộc khởi nghĩa của nông dân, ruộng đất nước ta chủ yếu tích tụ vào tay một số ít địa chủ Pháp, phong kiến, quan lại, địa chủ thường và địa chủ kiêm công thương đã làm xã hội phân hóa mạnh mẽ. Giai cấp địa chủ chiếm 9% tổng số chủ ruộng nhưng lại sở hữu trên 50% diện tích đất canh tác. Tiểu nông chiếm trên 90% tổng số chủ ruộng nhưng lại chỉ có gần 40% diện tích trồng trọt. Ngoài ra còn khoảng 2,2 triệu hộ trong tổng số 4 triệu hộ nông thôn lúc bấy giờ hoàn toàn không có đất. Họ bị bóc lột dã man bởi tô, tức, thuế.

         Đời sống nông dân dưới thời Pháp thuộc vô cùng nghèo nàn, đau khổ. Song chính trong sự áp bức bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và tay sai đã khiến cho họ nhận rõ bộ mặt thực của kẻ thù dân tộc và kẻ thù giai cấp. Bằng những kinh nghiệm trực tiếp của mình, giai cấp nông dân đã tiến từng bước tới giác ngộ chính trị. Họ sẵn sàng ủng hộ, đi theo các phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì quyền lợi của người lao động.

Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, từ lâu, Người đã hiểu và gắn bó với nông dân Việt Nam. Trong cuốn Đường Kách mệnh (1927), đồng chí Nguyễn Ái Quốc  đặt vấn đề nông dân Việt Nam muốn thoát khỏi ách áp bức, bóc lột thì phải “tổ chức nhau lại”, vì vậy, Người đã dành riêng một chương phân tích về tình hình nông dân Việt Nam và tầm quan trọng của “Tổ chức dân cày” (1). Vạch rõ nguồn gốc đói nghèo, đau khổ của nông dân Việt Nam chính là do sự áp bức, bóc lột tàn nhẫn của đế quốc, phong kiến và bè lũ tay sai. Vì vậy “Nếu dân cày An Nam muốn thoát khỏi vòng cay đắng, thì phải tổ chức nhau kiếm đường giải phóng”; (2). Giai cấp nông dân cần phải có tổ chức riêng của mình là Hội dân cày. Nhưng trong tình hình hiện tại chưa nên gọi là Hội dân cày, mà nên gọi là phường lợp nhà, phường đánh cá, phường chung lúa…

 Ngày 1/11/1929, Báo “Dân cày” số đầu tiên của tỉnh Ninh Bình được phát hành, nội dung tờ báo tố cáo sự bóc lột dã man của thực dân, kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh chống đế quốc cướp nước và đánh đổ tay sai.

Cuối thập kỷ 20 của thế kỷ XX, Nông hội đỏ đã xuất hiện ở một số địa phương. Tháng 11/1929, Ban Chấp hành Tổng Nông hội Nghệ An ra đời, do đồng chí Phan Thái Ất làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo của xứ ủy Trung Kỳ, ngày 10/12/1929 ở thành phố Vinh – Bến Thủy và một số vùng ở Nghệ An rải truyền đơn kêu gọi các tầng lớp nhân dân tham gia các tổ chức quần chúng của Đảng cộng sản. Truyền đơn có phần kêu gọi Dân cày gia nhập Nông hội, theo Đảng Cộng sản đấu tranh đòi bỏ thuế người, thuế vườn, thuế chợ, thuế đò, bỏ lệ bắt phu… Tiếp theo nhiều tổ chức Nông hội đỏ được thành lập ở Thái Bình, Hà Nội, Hà Đông, Hải Phòng, Hải Dương và các tỉnh Trung Kỳ, Nam Kỳ…

Đầu năm 1930, Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức tại Cửu Long (Hương Cảng - Trung Quốc), trong Sách lược vắn tắt của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc dự thảo, được Hội nghị hợp nhất thông qua ngày 03/02/1930 đã nêu ra những vấn đề cơ bản đối với giai cấp nông dân: “Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến''; đồng thời, Đảng nhấn mạnh ''Nông dân là lực lượng to lớn của cách mạng". Vì vậy, phải tập hợp nông dân vào một tổ chức dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, đấu tranh giành độc lập tự do và thực hiện cách mạng ruộng đất.

Cao trào cách mạng 1930 - 1931, dưới sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương, các tổ chức Nông hội cấp cơ sở được hình thành ở Nam Kỳ, Trung Kỳ, đặc biệt là ở Nghệ - Tĩnh. Nông dân cả nước đã vùng lên đấu tranh cùng với công nhân giành thắng lợi từng bước. Chỉ tính từ tháng 5/1930 – 10/1930 cả nước có 53.000 hội viên nông hội.

Trên cơ sở đó, Hội nghị lần thứ Nhất, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp trong tháng 10/1930 tại Hương Cảng đã thông qua bản Luận cương chính trị, trong đó nêu rõ: “Dân cày là hạng người chiếm đại đa số ở đông Dương (hơn 90 phần trăm), họ là một động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân quyền”. Luận cương vạch rõ: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp có đứng đầu và cùng với quần chúng dân cày để tranh đấu và binh vực quyền lợi hằng ngày cho dân cày và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để thì mới giành quyền lãnh đạo dân cày được”.

Cùng với việc thông qua Luận cương chính trị, Hội nghị còn ra Nghị quyết về Tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, trong đó nêu rõ các quyết định quan trọng của Hội nghị, một trong các quyết định đó là “phải chỉnh đốn Nông hội lại cho có hệ thống theo điều lệ mới và dự bị việc tổ chức Đông Dương Tổng Nông hội”.

Tại Hội nghị quan trọng này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về thành lập Tổng Nông hội Đông Dương và thông qua Điều lệ Tổng Nông Hội Đông Dương gồm 8 điều trong đó nêu rõ mục đích ''Thống nhất hết thảy Tổng Nông Hội Đông Dương để tranh đấu bênh vực quyền lợi hàng ngày của nông dân và để thực hiện cách mạng thổ địa''. Điều lệ Tổng Nông hội Đông Dương quy định: “Hễ Nông hội nào thừa nhận mục đích, Điều lệ và chịu thi hành những án nghị quyết của Tổng Nông hội Đông Dương và nộp hội phí thì được nhận làm hội viên”. trong đó trọng tâm là xây dựng tổ chức Nông hội, cơ sở của Nông hội là làng. Tổ chức phải theo hệ thống dọc: từ tổng Tổng Nông hội, huyện Tổng Nông hội, tỉnh Tổng Nông hội, xứ Tổng Nông hội, đông Dương Tổng Nông hội. Cũng tại hội nghị này Điều lệ Nông hội làng được thông qua. Mục đích của Nông hội làng là đoàn kết hết thảy bần và trung nông trong làng, liên hiệp với nông dân và công nhân các nơi trong nước để đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bênh vực quyền lợi của nông dân và thực hiện cách mạng ruộng đất.

Việc thành lập Tổng Nông hội Đông Dương (tên gọi đầu tiên của Hội Nông dân Việt Nam ngày nay) đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử giai cấp nông dân Việt Nam, sự trưởng thành và lớn mạnh về của phong trào nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

II. HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC.

Phát huy vai trò của tổ chức Hội Nông dân trong sự nghiệp cách mạng và tiến tới Đại hội đại biểu nông dân toàn quốc, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo đối với giai cấp nông dân Việt Nam, như:.

Ngày 18/9/1974, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 209 - CT/TW về tổ chức Đại hội Đại biểu nông dân tập thể các cấp.

Ngày 11/10/1974, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông báo số 16 – TB/TW về việc thành lập Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung ương (gắn với Ban Nông nghiệp Trung ương).

Ngày 25/6/1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Công văn số 156 – CV/TW, quyết định tách Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung ương (trước đây nằm trong Ban Nông nghiệp Trung ương) thành một cơ quan riêng trực thuộc Ban Bí thư, thuộc hệ thống các đoàn thể quần chúng.

Ngày 27/9/1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 78 – CT/TƯ về việc tổ chức Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam.

Để phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và đoàn kết nông dân lao động, đưa nông thôn nước ta tiến lên CNXH, Bộ Chính trị đã quyết định thành lập tổ chức thống nhất của nông dân lao động trong cả nước, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở, lấy tên là Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Chỉ thị khẳng định Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng rãi của nông dân lao động trong cả nước, Hội có nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết nông dân để giáo dục, vận động nông dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam, đưa nông thôn tiến lên CNXH. Hội kết nạp tất cả nông dân hăng hái phấn đấu vào con đường làm ăn tập thể XHCN, theo nguyện tắc tự nguyện.

Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam được thành lập có ý nghĩa chính trị to lớn. Sau nhiều năm không có tổ chức Hội (ở miền Bắc), nay giai cấp nông dân cả nước có tổ chức thống nhất từ Trung ương xuống cơ sở.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nông nghiệp nước ta chưa có những chuyển biến tích cực. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp trong thời gian qua không còn phù hợp. Những hạn chế của nó đã dẫn đến những biểu hiện suy thoái trong phát triển sản xuất, những dấu hiệu khủng hoảng, bất hợp lý bộc lộ ngày càng rõ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.

Tổ chức Hội Nông dân ngày càng được Đảng quan tâm hơn. Ngày 27/9/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 116 – CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam.

Để thống nhất quan điểm, nhận thức về vị trí, vai trò, tổ chức hoạt động của Hội Liên hiệp Hội Nông dân tập thể, đồng thời chuẩn bị tốt hơn về mọi mặt cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Từ ngày 26/4 – 28/4/1986, tại thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Sơn Bình, Ban Nông nghiệp Trung ương đã tổ chức hội nghị các Trưởng ban Nông nghiệp và Chủ tịch Hội Nông dân tập thể các tỉnh, thành phố dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Thanh Bình, Bí thư Trung ương Đảng, cùng các đồng chí Vũ Oanh, Dương Quốc Cẩm.

 Quán triệt tinh thần đổi mới theo nội dung Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, nhằm đẩy mạnh hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam, ngày 24/3/1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 05/CT-TW về Tổ chức Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội.

Ngày 01/3/1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Quyết định số 42 - QĐ/TW về việc đổi tên Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam thành Hội Nông dân Việt Nam.

Tại phiên họp ngày 17/01/1991, Bộ Chính trị đã đồng ý lấy ngày 14 tháng 10 năm 1930 làm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam.

Ngày 20/5/1991, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 69 – CT/TƯ về việc Tổ chức kỷ niệm 61 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 – 14/10/1991). Lần đầu tiên Hội Nông dân Việt Nam tổ chức mít tinh kỷ niệm trọng thể 61 năm Ngày thành lập Hội tại Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư Đỗ Mười tới dự và có bài phát biểu quan trọng.

Tại Lễ Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 – 14/10/2010), giai cấp nông dân Việt Nam đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân Chương Sao Vàng (lần 2).

Tại Lễ Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 – 14/10/2021), giai cấp nông dân Việt Nam đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân Chương Hồ Chí Minh.

5. Các kỳ đại hội của Hội Nông dân Việt Nam

5.1. Đại hội lần thứ I (nhiệm kỳ 1988 - 1993)

Đại hội được tổ chức từ ngày 28/3 - 29/3/1988 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Tham dự Đại hội có 613 đại biểu thay mặt cho 11.188.789 hội viên của cả nước. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 95 đồng chí và bầu 17 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Phạm Bái - Ủy viên BCH Trung ương Đảng được bầu giữ chức Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Đại hội là sự kiện chính trị trọng đại, đã đánh dấu một mốc son quan trọng trên chặng đường cách mạng vẻ vang của Đảng, mở ra giai đoạn phát triển mới của phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam. Từ đây, Hội Nông dân Việt Nam, một tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông dân có hệ thống tổ chức hoàn chỉnh từ Trung ương đến cơ sở, khẳng định những quan điểm cơ bản của Đảng về vị trí, vai trò của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam.

5.2. Đại hội lần thứ II (nhiệm kỳ 1993 - 1998)

Đại hội được tổ chức từ ngày 15/11 - 19/11/1993 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 600 đại biểu đại diện cho 7.269.982 hội viên (số hội viên giảm nhiều so với Đại hội I là do Hội có chủ trưởng rà soát danh sách, nâng cao chất lượng hội viên). Đại hội đã bầu 77 đồng chí vào Ban Chấp hành và 14 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) - Ủy viên BCH Trung ương Đảng được bầu lại làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Đây là Đại hội “Đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động”, là Đại hội của trí tuệ và niềm tin, nơi hội tụ ý chí và nguyện vọng của giai cấp nông dân quyết tâm đổi mới và xây dựng Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt.

5.3. Đại hội lần thứ III (nhiệm kỳ 1998 - 2003)

Đại hội được tổ chức từ ngày 17/11 - 20/11/1998 tại Cung Văn hóa Hữu nghị, Hà Nội. Tham dự Đại hội có 700 đại biểu thay mặt cho 7.215.544 hội viên. Đại hội đã bầu 114 Ủy viên Ban Chấp hành, 19 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Đức Triều - Ủy viên BCH Trung ương Đảng được bầu lại giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Đại hội khẳng định tiếp tục đổi mới và phát huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt của Hội, tổ chức, động viên giai cấp nông dân phát huy nội lực, cần kiệm xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

5.4. Đại hội lần thứ IV (nhiệm kỳ 2003 - 2008)

Đại hội được tổ chức từ ngày 22/11 - 25/11/2003 tại Cung Văn hóa Hữu nghị, Hà Nội. Tham dự Đại hội có 860 đại biểu đại diện cho 8.173.238 hội viên cả nước. Đại hội đã bầu 120 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Vũ Ngọc Kỳ - Ủy viên BCH Trung ương Đảng được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Chủ đề Đại hội là ''Đoàn kết - Đổi mới - Dân chủ - Phát triển''. Đại hội đã xác định phương hướng là: Xây dựng Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt, là trung tâm, nòng cốt trong phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới; nâng cao vai trò đại diện của giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

5.5. Đại hội lần thứ V (nhiệm kỳ 2008 - 2013)

Đại hội đã được tổ chức từ ngày 22/12 - 25/12/2008 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình - Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.175 đại biểu đại diện cho 9.563.577 hội viên. Đại hội đã bầu 124 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Nguyễn Quốc Cường - Ủy viên BCH Trung ương Đảng tái đắc cử giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Chủ đề Đại hội: “Đoàn kết - Đổi mới - Hội nhập - Phát triển”. Đại hội đã xác định phương hướng là: “Đoàn kết, năng động, sáng tạo, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh, là chủ thể trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; Hội Nông dân vững về chính trị, mạnh về tổ chức, thống nhất về hành động, là trung tâm và nòng cốt trong phong trào nông dân, góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới…”.

5.6. Đại hội lần thứ VI (nhiệm kỳ 2013 - 2018)

Đại hội được tổ chức từ ngày 30/6 - 03/7/2013 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình - Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.169 đại biểu thay mặt cho 9.913.432 hội viên cả nước. Đại hội đã bầu 122 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Nguyễn Quốc Cường, Ủy viên BCH Trung ương Đảng được tái cử giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Chủ đề Đại hội: “Đoàn kết - Đổi mới - Chủ động - Hội nhập - Phát triển bền vững”. Đại hội xác định phương hướng: Phát huy vai trò trung tâm và nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới; đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động theo hướng kết hợp chặt chẽ công tác tập hợp, tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân, tham gia xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; giám sát, phản biện xã hội và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với đẩy mạnh hợp tác tăng cường các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ và dạy nghề, đáp ứng nhu cầu và lợi ích thiết thực của hội viên, nông dân. Trực tiếp và phối hợp thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở nông thôn...

Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ thứ 8 (khóa VI), họp ngày 24/6/2016 tại Hà Nội đã bầu đồng chí Lại Xuân Môn - Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Thường trực giữ chức Chủ tịch BCH Trung ương Hội Nông dân Việt Nam thay đồng chí Nguyễn Quốc Cường được Bộ Chính trị cho nghỉ hưu; tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam lần thứ 13 (Khóa VI), họp ngày 12/01/2018, tại Hà Nội đã bầu đồng chí Thào Xuân Sùng, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam thay đồng chí Lại Xuân Môn được Bộ Chính trị bố trí công tác mới.

 5.7. Đại hội lần thứ VII (nhiệm kỳ 2018 – 2023)

 Đại hội được tổ chức từ ngày 11 - 13/12/2018 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình - Hà Nội. Tham dự Đại hội có 999 đại biểu đại diện cho 10.192.865 hội viên cả nước. Đại hội vinh dự được đón tiếp các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước: Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân; Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, đại diện các ban, bộ, ngành trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, các cơ quan thông tấn báo chí. Đại hội đã bầu 119 uỷ viên Ban Chấp hành; Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khoá VII họp ngày 12/12/2018 tại Hà Nội đã bầu 21 uỷ viên Ban Thường vụ; đồng chí Thào Xuân Sùng, Uỷ viên BCH Trung ương Đảng tái đắc cử giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam; Ngày 29/5/2021, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khóa VII đã bầu đồng chí Lương Quốc Đoàn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Đảng đoàn, Phó Chủ tịch Thường trực Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân giữ chức chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam thay cho đồng chí Thào Xuân Sùng nghỉ chế độ.

II/ Hội Nông dân và phong trào Nông dân Thanh Hóa.

1. Hội Nông dân và Phong trào Nông dân Thanh Hóa trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân, đế quốc.

Thanh Hóa là tỉnh sớm có phong trào nông dân. Nông Hội đỏ ở Thanh Hóa được thành lập từ năm 1930, với 200 Hội viên ở một số làng thuộc các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Đông Sơn. Từ ngày thành lập đến nay, Hội Nông dân Thanh Hóa luôn là lực lượng nòng cốt trong các phong trào cách mạng của nông dân, nông thôn Thanh Hóa, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của nông dân Yên Trường đòi chia lại công điền, công thổ; cuộc đấu tranh của 600 nông dân Yên Định đòi trả tự do cho tù chính trị...

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đuổi Nhật toàn Tỉnh có 60 vạn thanh niên nông thôn vào bộ đội, hàng vạn nông dân tham gia thanh niên xung phong, 90% gia đình có con em nông dân đi bộ đội, trong đó có 3 vạn gia đình có từ 3 con trở lên trực tiếp chiến đấu tại các chiến trường. Riêng chiến dịch Điện Biện Phủ, Thanh Hóa đã đóng góp hàng ngàn tấn thực phẩm, hàng vạn tấn lương thực, đã huy động 12 vạn nông dân tham gia vận chuyển trên 50% số lương thực, thực phẩm phục vụ cho cả chiến dịch.

Trong kháng chiến chống Mỹ, nông dân Thanh Hóa đã cùng với quân dân trong tỉnh và các đơn vị bộ đội đóng trên địa bàn tổ chức chiến đấu giữ vừng nhịp cầu Hàm Rồng đập tan chính sách leo thang của đế quốc Mỹ, bắn rơi 376 máy bay, bắn chìm và bắn cháy 57 tàu chiến, tiêu diệt và bắt sống nhiều giặc lái...

2. Hội Nông dân và Phong trào  Nông dân Thanh Hóa trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng CNXH:

          Hội Nông dân Thanh Hóa đã bám sát chương trình, mục tiêu, nhiệm vụ công tác Hội của TW Hội Nông dân Việt Nam  để xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động và tổ chức các phong trào hành động cách mạng của nông dân.

Hội Nông dân Thanh Hóa đã khởi xướng phong trào gia đình nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi nay lại trở thành phong trào thi đua cách mạng của nông dân cả nước.

Nhiều năm gần đây, vai trò, vị trí của Hội Nông dân Tỉnh đã từng bước được khẳng định, hoạt động công tác Hội luôn luôn được xây dựng và củng cố; nội dung, phương thức hoạt động hướng về cơ sở và thường xuyên đổi mới

Nhiều hoạt động trong các phong trào thi đua của Hội phát động đã mang lại kết quả thiết thực cho cán bộ, Hội viên nông dân.

Với những đóng góp to lớn của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Tỉnh nhà vào quá trình xây dựng tổ chức Hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh. Nhiều năm liền Hội Nông dân Tỉnh được Chính phủ tặng cờ thi đua đơn vị dần đầu phong trào thi đua cả nước, được TW Hội tặng cờ đơn vị xuất sắc toàn quốc .... Nhiều huyện Hội, Hội nông dân  xã và một số hội viên nông dân được thưởng Huân chương lao động hạng 3, nhiều tập thể cá nhân của Hội được tặng bằng khen của TW Hội Nông dân Việt Nam, UBND tỉnh và các Bộ, Ngành TW.

Trải qua những chặng đường lịch sử đấu tranh của dân tộc, nhất là trong suốt 92 năm qua kể từ khi có Đảng lãnh đạo, giai cấp nông dân và Hội Nông dân Thanh Hóa luôn giữ vững ý chí sắt đá đấu tranh ngoan cường, đầy thử thách, hy sinh vì mục tiêu giải phóng dân tộc và bảo về nền độc lập của tổ quốc; cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp toàn diện, xây dựng nông thôn mới theo hướng CNH- HĐH.

          Từ ngày thành lập đến nay Hội Nông dân Thanh Hóa đã trải qua 10 kỳ Đại Hội.

          Đại Hội lần thứ I vào tháng 6/ 1947 và Đại Hội lần thứ 10 vào tháng 9 năm 2018.

VI. Hội Nông dân và phong trào  Nông dân Hà Trung.

Cùng với phong trào chung của cả nước Nông dân và tổ chức Hội nông dân huyện Hà Trung đã đi theo Đảng có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng.

Sau khi chi bộ Đảng cộng sản huyện Hà trung ra đời, các hội quần chúng cũng lần lượt được thành lập như Hội học chữ quốc ngữ ở làng bái sơn Hà Tiến, hội lợp nhà ở một số thôn xóm cũng được hình thành.

Tháng 3/1936, đồng chí Mai Tự Cường một Đảng viên trung kiên của Đảng về tổng Thanh Xá (nay thuộc xã Hà Lĩnh và xã Hà Sơn) tuyên truyền vận động quần chúng thành lập “Hội tương tế ái hữu” tiền thân của hội nông dân Hà Trung.

Trong  qu¸ tr×nh hoạt động qua nhiều làn đổi tên từ Hội tương tế ái hữu đến Hội nông dân cứu quốc, Hội nông dân tập thể, nay là Hội nông dân

Hội nông dân là lực lượng nòng cốt trong các giai đoạn cách mạng. 

Thời kỳ 1936-1945 Hội nông dân tham gia đấu tranh chống lại chế độ hà khắc của thực dân phong kiến dành nhiều tháng lợi, mở đầu là cuộc đấu tranh của phu mỏ Cô sơn thuộc tổng Thanh xá vào tháng 12/1936.

Tháng 6/1936 nông dân tổng thanh xá đấu tranh chống tăng thu thuế .

Tháng 7 năm 1943 nông dân Hà Bình đấu tranh chống lệnh giảm diện tích lúa để trồng đay, không nộp và bán bông cho Nhật.

Năm 1943-1944 nhiều cuộc đấu tranh chống bắt phu và đấu tranh dành bông, lạc trên xe của Nhật, tham gia bắt thuyền Than của giặc Nhật của Nông dân Hà Thanh trên sông báo văn

Trong cách mạng Tháng 8 Nông dân toàn huyện đã tham gia khởi nghĩa dành chính quyền ở các thôn, phủ, tổng

  Hội nông dân đã tập hợp, tổ chức giáo dục giai cấp nông dân địa phương gương mẫu tham gia xây dựng lực lượng dân quân, du kích, gom góp nhân tài, vật lực, xây dựng làng kháng chiến, tích cực tham gia phong trào tự vũ trang, đẩm bảo mỗi dân quân có một vũ khí tự tạo như giáo búp đa, mã tấu, gậy tre ...

Trong kh¸ng chiÕn chèng ph¸p thành tÝch đóng góp kháng chiến của nông dân huyện Hà trung là: Đã mua 3.524.272 đồng công trái quốc gia; 21.670.111 đồng công phiếu kháng chiến, 40.111kg thóc ủng hộ kháng chiến, 386,6 đồng cân vàng; 440 đồng cân bạc 22.111 kg đồng và số tiền 1486 đồng; có 1.377 người tham gia quân đội, 2532 người tham gia bộ đội địa phương, 48.308 người đi dân công hỏa tuyến, vận chuyển được 4235.350 kg hàng hóa, đóng góp 435.564 kg gạo, 54 con trâu bò và nhiều thực phẩm khác...Trong kháng chiến chống mỹ có 14.774 thanh niên nhập ngũ, 1.589 thanh niên xung phong, 6.734 người đi dân công hỏa tuyến, đóng góp  trên 6,6 vạn tấn lương thực, 163 ngôi nhà, bắn rơi 3 máy bay, bắt sống 8 giặc lái.

Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hôi, nhiều điển hình tiên tiến của nông dân đã xuất hiện các hợp tác xã như Hà Châu, Hà Toại, Hà Tân, Hà Lĩnh (thời kỳ 1970-1985) là những điển hình ttiên tiến trong sản xuất nông nghiệp  

Trong thời kỳ đổi mới Hội nông dân Hà trung đã động viên giáo dục hội viên xây dựng quan hệ sản xuất mới làm nòng cốt trong các phong trào nông dân, giai cấp nông dân vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào công cuộc đổi mới.

  Hội nông dân Hà Trung luôn đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của mình, xây dựng và củng cố tổ chức Hội ngày càng vững mạnh, Hội đã tích cực đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, hỗ trợ nông dân như tín chấp vay vốn, của Ngân hàng NNo&PTNT, ngân hàng CSXH số tiền trên 468 tỷ đồng cho 6973 hộ vay để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo. Dịch vụ hàng nghìn tấn phân bón trả chậm cho nông dân, hàng chục tấn giống cây, con. Tập huấn và chuyển giao kỹ thuật cho hàng chục nghìn hội viên nông dân. Xây dựng các mô hình, điển hình sản xuất kinh doanh giỏi, hăng hái tham gia chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu mùa vụ, cơ cấu vật nuôi, cây trồng. Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, trọng tâm là phong trào hộ gia đình nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng; phong trào xây dựng nông thôn mới, phong trào đảm bảo an ninh quốc phòng. Góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn huyện nhà ngày càng tiến bộ. Đời sống vật chất, tinh thần được nâng lên, dân chủ trong nông thôn được phát huy, An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ vững.

Từ khi thành lập đến nay HND Hà Trung đã trải qua 11 kỳ đại hội.

Đại Hội lần thứ nhất vào năm 1973; Đồng chí Nguyễn Văn Do được bầu làm chủ tịch hội nông dân huyện.

Đại Hội lần thứ 11 được tổ chức vào ngày 29 tháng 6/2018 đại hội đó bầu 29 đồng chớ ủy viên BCH huyện hội; Đồng chí Mai Đức Sơn được bầu làm chủ tịch hội nông dân huyện.

Qua mỗi kỳ đại Hội hội nông dân huyện nhà không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Hiện nay 20 xã, thị trấn đều có tổ chức Hội với 143 chi hội và 15.880 hội viên tỷ lệ tập hợp đạt 114,2% so hộ nông nghiệp.

VII. Hội nông dân và phong trào nông dân Hà Long.

Sau cách mạng tháng 8/1945 thành công; với 3 nhiệm vụ giệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nông dân Hà Long đã tin tưởng vào Đảng và Hồ chủ tịch tham gia hưởng ứng sôi nổi bằng những hoạt động thiết thực như phong trào “ nhường cơm xẻ áo”, “tương thân tương ái” diễn ra khắp các thôn xóm; tham ra cuộc vận động “ ai ơi chớ bỏ ruộng hoang”, “ tấc đất, tấc vàng”, đẩy mạnh tăng gia sản xuất nhờ đó nại đói ở Hà Long từng bước được đẩy lùi. Năm 1946 hưởng ứng phong trào do chính phủ phát động nông dân và nhân Hà Long đã tự nguyện góp 7 đồng cân vàng trong “ tuần lễ vàng”, 160 Kg đồng và 13.320 đồng vào “quỹ mua súng”; trong phong trào “hũ gạo kháng chiến” nông dân và nhân dân Hà Long đã đóng góp được 330 kg; phong trào “ công trái quốc gia” đã thu được 653.364 đồng, 75.800 đồng đã được dành để mua “công phiếu kháng chiến”; hưởng ứng phong trào bán lúa để “Hồ chủ tịch khao quân” nông dân toàn xã đã bán được 3.860 kg; có 1.482 lượt người tham gia trong 143 đợt dân công phục vụ cho các chiến trường, với 60 nghìn ngày công trong 9 năm tham gia kháng chiến chống pháp.

Trong kháng chiến chống mỹ cứu nước các thế hệ nông dân Hà Long dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đóng góp nhiều sức người, sức của cho kháng chiến thành công, đã có 680 người tham gia bộ đội chủ lực, 215 người tham gia thanh niên xung phong, 41 người đi dân công hỏa tuyến; đóng góp 1.300 tấn lương thực, 250 tấn thịt lơn hơi; ủng hộ bộ đội đóng tại địa phương 350 kg gạo, 380 kg gà, vịt, 700 đồng bạc, 2 tấn rau xanh, 800 chiếc bánh chưng, 60 kg chè xanh, gần 3 tạ giẻ lau pháo…

Trước những năm 1970 với diện tích tự nhiên 4.726 ha mà diện tích canh tác chỉ có 467 ha, sản lượng lương thực năm cao nhất cũng chỉ đạt 947 tấn; để đáp ứng yêu cầu bức thiết của sản xuất đầu năm 1970 nông dân đã tham ra xây dựng đập Bến Quân trên thượng nguồn sông Long Khê, năm 1972 Hồ Bến Quân hoàn thành có trữ lượng nước khoảng 2 triệu m³ . Năm 1992 tiến hành thi công lần 3 và đã thành công Đập Đồm Đồm trên sông Vạn Bảo, bao gồm cả đập và cống đập hồ chứa nước rộng khoảng 7 ha; từ khi có hồ Bến Quân và đập Đồm Đồm sản xuất phát triển, ruộng cấy từ 1 vụ tăng lên 2-3 vụ, năng xuất cây trồng tăng gấp đôi, gấp ba, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao.

 Trong thời kỳ đổi mới các cấp Hội Nông dân từ xã đến thôn luôn phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, làm tốt công tác tuyên truyền tuyên truyền giáo dục, góp phần nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương; tạo sự đồng thuận về tư tưởng, thống nhất về hành động trong cán bộ, hội viên nông dân, góp phần tạo nên những thành tích ấn tượng trong phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở địa phương. Đến nay Hội xã có 9 chi hội với trên 1.575 Hội viên đạt 93% so với hộ làm nông nghiệp. Các cấp hội đã không ngừng nâng chất lượng hoạt động, phát huy vai trò trung tâm, nòng cốt của tổ chức Hội và hội viên trong phong trào nông dân và thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; tích cực thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội góp phần xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nông dân. Đẩy mạnh phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững; các hoạt động hỗ trợ dạy nghề, tập huấn hướng dẫn sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi, chuyển giao các ứng dụng tiến bộ của khoa học vào sản xuất, thành lập các tổ hợp tác, HTX liên kết trong nông nghiệp; hướng dẫn lập thủ tục tạo điều kiên cho hội viên nông dân được tiếp cận với nguồn vốn vay của 02 Ngân hàng với số tiền trên 71 tỷ đồng cho 718 hộ vay, Cung ứng hàng trăm tấn phân bón chậm trả cho Hội viên nông dân.Với những kết quả đó Hội nông dân xã được Đảng, Chính quyền và Hội cấp trên khen thưởng tặng nhiều giấy khen, Được TW Hội Nông dân Việt Nam tặng Bằng khen trong năm 2012; Được BCH Hội nông dân tỉnh Thanh Hóa tặng Bằng khen các năm 2015, 2018, 2020.

Hôm nay nhân ngày truyền thống vẻ vang của Hội, chúng ta bồi hồi xúc động tưởng nhớ đến công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vỹ đại, các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc và nhng đóng góp to lớn của giai cấp nông dân và Hội nông dân trong 92 năm qua.  Để xứng đáng với truyền thống của Hội; Mỗi cán bộ, hội viên, nông dân Hà Long sẽ tích cực lao động, sáng tạo, ra sức xây dựng Hội vững mạnh, xứng đáng là trung tâm và nòng cốt trong phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội  mà Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVIII nhiệm kỳ 2020-2025 đã đề ra; nhanh chóng xây dựng xã Hà Long sớm trở thành đô thị loại V trước năm 2025; cùng với các cấp Hội và nông dân cả nước xây dựng Hội Nông dân Việt Nam ngày càng vững mạnh, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trường trường quốc tế.

    Kỷ niệm 92 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam  là dịp để cán bộ, hội viên, nông dân cùng nhân dân cả nước ôn lại truyền thống cách mạng vẻ vang của tổ chức Hội và giai cấp nông dân Việt Nam; cổ vũ, động viên cán bộ, hội viên, nông dân ra sức thi đua, phát huy vai trò, trách nhiệm của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hòa bình, thịnh vượng.

 

                                           BAN CHẤP HÀNH HỘI NÔNG DÂN XÃ HÀ LONG

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  

ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN 92 NĂM NGÀY THÀNH LẬP HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM (14/10/1930 - 14/10/2022)

Đăng lúc: 31/10/2022 09:05:20 (GMT+7)


HỘI ND HUYỆN HÀ TRUNG                                     CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM                       HỘI NÔNG DÂN XÃ HÀ LONG                                            Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

                     *                                                        

                                                                                              Hà Long; ngày 05  tháng 10  năm 2022

 

ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
92 NĂM NGÀY THÀNH LẬP HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM

(14/10/1930 - 14/10/2022)
 

I. SỰ RA ĐỜI NÔNG HỘI ĐỎ, TIỀN THÂN CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM

 Đầu năm 1920, sau khi dập tắt các cuộc khởi nghĩa của nông dân, ruộng đất nước ta chủ yếu tích tụ vào tay một số ít địa chủ Pháp, phong kiến, quan lại, địa chủ thường và địa chủ kiêm công thương đã làm xã hội phân hóa mạnh mẽ. Giai cấp địa chủ chiếm 9% tổng số chủ ruộng nhưng lại sở hữu trên 50% diện tích đất canh tác. Tiểu nông chiếm trên 90% tổng số chủ ruộng nhưng lại chỉ có gần 40% diện tích trồng trọt. Ngoài ra còn khoảng 2,2 triệu hộ trong tổng số 4 triệu hộ nông thôn lúc bấy giờ hoàn toàn không có đất. Họ bị bóc lột dã man bởi tô, tức, thuế.

         Đời sống nông dân dưới thời Pháp thuộc vô cùng nghèo nàn, đau khổ. Song chính trong sự áp bức bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và tay sai đã khiến cho họ nhận rõ bộ mặt thực của kẻ thù dân tộc và kẻ thù giai cấp. Bằng những kinh nghiệm trực tiếp của mình, giai cấp nông dân đã tiến từng bước tới giác ngộ chính trị. Họ sẵn sàng ủng hộ, đi theo các phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì quyền lợi của người lao động.

Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, từ lâu, Người đã hiểu và gắn bó với nông dân Việt Nam. Trong cuốn Đường Kách mệnh (1927), đồng chí Nguyễn Ái Quốc  đặt vấn đề nông dân Việt Nam muốn thoát khỏi ách áp bức, bóc lột thì phải “tổ chức nhau lại”, vì vậy, Người đã dành riêng một chương phân tích về tình hình nông dân Việt Nam và tầm quan trọng của “Tổ chức dân cày” (1). Vạch rõ nguồn gốc đói nghèo, đau khổ của nông dân Việt Nam chính là do sự áp bức, bóc lột tàn nhẫn của đế quốc, phong kiến và bè lũ tay sai. Vì vậy “Nếu dân cày An Nam muốn thoát khỏi vòng cay đắng, thì phải tổ chức nhau kiếm đường giải phóng”; (2). Giai cấp nông dân cần phải có tổ chức riêng của mình là Hội dân cày. Nhưng trong tình hình hiện tại chưa nên gọi là Hội dân cày, mà nên gọi là phường lợp nhà, phường đánh cá, phường chung lúa…

 Ngày 1/11/1929, Báo “Dân cày” số đầu tiên của tỉnh Ninh Bình được phát hành, nội dung tờ báo tố cáo sự bóc lột dã man của thực dân, kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh chống đế quốc cướp nước và đánh đổ tay sai.

Cuối thập kỷ 20 của thế kỷ XX, Nông hội đỏ đã xuất hiện ở một số địa phương. Tháng 11/1929, Ban Chấp hành Tổng Nông hội Nghệ An ra đời, do đồng chí Phan Thái Ất làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo của xứ ủy Trung Kỳ, ngày 10/12/1929 ở thành phố Vinh – Bến Thủy và một số vùng ở Nghệ An rải truyền đơn kêu gọi các tầng lớp nhân dân tham gia các tổ chức quần chúng của Đảng cộng sản. Truyền đơn có phần kêu gọi Dân cày gia nhập Nông hội, theo Đảng Cộng sản đấu tranh đòi bỏ thuế người, thuế vườn, thuế chợ, thuế đò, bỏ lệ bắt phu… Tiếp theo nhiều tổ chức Nông hội đỏ được thành lập ở Thái Bình, Hà Nội, Hà Đông, Hải Phòng, Hải Dương và các tỉnh Trung Kỳ, Nam Kỳ…

Đầu năm 1930, Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức tại Cửu Long (Hương Cảng - Trung Quốc), trong Sách lược vắn tắt của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc dự thảo, được Hội nghị hợp nhất thông qua ngày 03/02/1930 đã nêu ra những vấn đề cơ bản đối với giai cấp nông dân: “Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến''; đồng thời, Đảng nhấn mạnh ''Nông dân là lực lượng to lớn của cách mạng". Vì vậy, phải tập hợp nông dân vào một tổ chức dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, đấu tranh giành độc lập tự do và thực hiện cách mạng ruộng đất.

Cao trào cách mạng 1930 - 1931, dưới sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương, các tổ chức Nông hội cấp cơ sở được hình thành ở Nam Kỳ, Trung Kỳ, đặc biệt là ở Nghệ - Tĩnh. Nông dân cả nước đã vùng lên đấu tranh cùng với công nhân giành thắng lợi từng bước. Chỉ tính từ tháng 5/1930 – 10/1930 cả nước có 53.000 hội viên nông hội.

Trên cơ sở đó, Hội nghị lần thứ Nhất, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp trong tháng 10/1930 tại Hương Cảng đã thông qua bản Luận cương chính trị, trong đó nêu rõ: “Dân cày là hạng người chiếm đại đa số ở đông Dương (hơn 90 phần trăm), họ là một động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân quyền”. Luận cương vạch rõ: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp có đứng đầu và cùng với quần chúng dân cày để tranh đấu và binh vực quyền lợi hằng ngày cho dân cày và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để thì mới giành quyền lãnh đạo dân cày được”.

Cùng với việc thông qua Luận cương chính trị, Hội nghị còn ra Nghị quyết về Tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, trong đó nêu rõ các quyết định quan trọng của Hội nghị, một trong các quyết định đó là “phải chỉnh đốn Nông hội lại cho có hệ thống theo điều lệ mới và dự bị việc tổ chức Đông Dương Tổng Nông hội”.

Tại Hội nghị quan trọng này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về thành lập Tổng Nông hội Đông Dương và thông qua Điều lệ Tổng Nông Hội Đông Dương gồm 8 điều trong đó nêu rõ mục đích ''Thống nhất hết thảy Tổng Nông Hội Đông Dương để tranh đấu bênh vực quyền lợi hàng ngày của nông dân và để thực hiện cách mạng thổ địa''. Điều lệ Tổng Nông hội Đông Dương quy định: “Hễ Nông hội nào thừa nhận mục đích, Điều lệ và chịu thi hành những án nghị quyết của Tổng Nông hội Đông Dương và nộp hội phí thì được nhận làm hội viên”. trong đó trọng tâm là xây dựng tổ chức Nông hội, cơ sở của Nông hội là làng. Tổ chức phải theo hệ thống dọc: từ tổng Tổng Nông hội, huyện Tổng Nông hội, tỉnh Tổng Nông hội, xứ Tổng Nông hội, đông Dương Tổng Nông hội. Cũng tại hội nghị này Điều lệ Nông hội làng được thông qua. Mục đích của Nông hội làng là đoàn kết hết thảy bần và trung nông trong làng, liên hiệp với nông dân và công nhân các nơi trong nước để đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bênh vực quyền lợi của nông dân và thực hiện cách mạng ruộng đất.

Việc thành lập Tổng Nông hội Đông Dương (tên gọi đầu tiên của Hội Nông dân Việt Nam ngày nay) đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử giai cấp nông dân Việt Nam, sự trưởng thành và lớn mạnh về của phong trào nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

II. HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC.

Phát huy vai trò của tổ chức Hội Nông dân trong sự nghiệp cách mạng và tiến tới Đại hội đại biểu nông dân toàn quốc, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo đối với giai cấp nông dân Việt Nam, như:.

Ngày 18/9/1974, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 209 - CT/TW về tổ chức Đại hội Đại biểu nông dân tập thể các cấp.

Ngày 11/10/1974, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông báo số 16 – TB/TW về việc thành lập Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung ương (gắn với Ban Nông nghiệp Trung ương).

Ngày 25/6/1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Công văn số 156 – CV/TW, quyết định tách Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung ương (trước đây nằm trong Ban Nông nghiệp Trung ương) thành một cơ quan riêng trực thuộc Ban Bí thư, thuộc hệ thống các đoàn thể quần chúng.

Ngày 27/9/1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 78 – CT/TƯ về việc tổ chức Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam.

Để phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và đoàn kết nông dân lao động, đưa nông thôn nước ta tiến lên CNXH, Bộ Chính trị đã quyết định thành lập tổ chức thống nhất của nông dân lao động trong cả nước, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở, lấy tên là Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Chỉ thị khẳng định Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng rãi của nông dân lao động trong cả nước, Hội có nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết nông dân để giáo dục, vận động nông dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam, đưa nông thôn tiến lên CNXH. Hội kết nạp tất cả nông dân hăng hái phấn đấu vào con đường làm ăn tập thể XHCN, theo nguyện tắc tự nguyện.

Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam được thành lập có ý nghĩa chính trị to lớn. Sau nhiều năm không có tổ chức Hội (ở miền Bắc), nay giai cấp nông dân cả nước có tổ chức thống nhất từ Trung ương xuống cơ sở.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nông nghiệp nước ta chưa có những chuyển biến tích cực. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp trong thời gian qua không còn phù hợp. Những hạn chế của nó đã dẫn đến những biểu hiện suy thoái trong phát triển sản xuất, những dấu hiệu khủng hoảng, bất hợp lý bộc lộ ngày càng rõ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.

Tổ chức Hội Nông dân ngày càng được Đảng quan tâm hơn. Ngày 27/9/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 116 – CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam.

Để thống nhất quan điểm, nhận thức về vị trí, vai trò, tổ chức hoạt động của Hội Liên hiệp Hội Nông dân tập thể, đồng thời chuẩn bị tốt hơn về mọi mặt cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Từ ngày 26/4 – 28/4/1986, tại thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Sơn Bình, Ban Nông nghiệp Trung ương đã tổ chức hội nghị các Trưởng ban Nông nghiệp và Chủ tịch Hội Nông dân tập thể các tỉnh, thành phố dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Thanh Bình, Bí thư Trung ương Đảng, cùng các đồng chí Vũ Oanh, Dương Quốc Cẩm.

 Quán triệt tinh thần đổi mới theo nội dung Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, nhằm đẩy mạnh hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam, ngày 24/3/1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 05/CT-TW về Tổ chức Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội.

Ngày 01/3/1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Quyết định số 42 - QĐ/TW về việc đổi tên Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam thành Hội Nông dân Việt Nam.

Tại phiên họp ngày 17/01/1991, Bộ Chính trị đã đồng ý lấy ngày 14 tháng 10 năm 1930 làm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam.

Ngày 20/5/1991, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 69 – CT/TƯ về việc Tổ chức kỷ niệm 61 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 – 14/10/1991). Lần đầu tiên Hội Nông dân Việt Nam tổ chức mít tinh kỷ niệm trọng thể 61 năm Ngày thành lập Hội tại Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư Đỗ Mười tới dự và có bài phát biểu quan trọng.

Tại Lễ Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 – 14/10/2010), giai cấp nông dân Việt Nam đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân Chương Sao Vàng (lần 2).

Tại Lễ Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 – 14/10/2021), giai cấp nông dân Việt Nam đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân Chương Hồ Chí Minh.

5. Các kỳ đại hội của Hội Nông dân Việt Nam

5.1. Đại hội lần thứ I (nhiệm kỳ 1988 - 1993)

Đại hội được tổ chức từ ngày 28/3 - 29/3/1988 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Tham dự Đại hội có 613 đại biểu thay mặt cho 11.188.789 hội viên của cả nước. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 95 đồng chí và bầu 17 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Phạm Bái - Ủy viên BCH Trung ương Đảng được bầu giữ chức Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Đại hội là sự kiện chính trị trọng đại, đã đánh dấu một mốc son quan trọng trên chặng đường cách mạng vẻ vang của Đảng, mở ra giai đoạn phát triển mới của phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam. Từ đây, Hội Nông dân Việt Nam, một tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông dân có hệ thống tổ chức hoàn chỉnh từ Trung ương đến cơ sở, khẳng định những quan điểm cơ bản của Đảng về vị trí, vai trò của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam.

5.2. Đại hội lần thứ II (nhiệm kỳ 1993 - 1998)

Đại hội được tổ chức từ ngày 15/11 - 19/11/1993 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 600 đại biểu đại diện cho 7.269.982 hội viên (số hội viên giảm nhiều so với Đại hội I là do Hội có chủ trưởng rà soát danh sách, nâng cao chất lượng hội viên). Đại hội đã bầu 77 đồng chí vào Ban Chấp hành và 14 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) - Ủy viên BCH Trung ương Đảng được bầu lại làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Đây là Đại hội “Đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động”, là Đại hội của trí tuệ và niềm tin, nơi hội tụ ý chí và nguyện vọng của giai cấp nông dân quyết tâm đổi mới và xây dựng Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt.

5.3. Đại hội lần thứ III (nhiệm kỳ 1998 - 2003)

Đại hội được tổ chức từ ngày 17/11 - 20/11/1998 tại Cung Văn hóa Hữu nghị, Hà Nội. Tham dự Đại hội có 700 đại biểu thay mặt cho 7.215.544 hội viên. Đại hội đã bầu 114 Ủy viên Ban Chấp hành, 19 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Đức Triều - Ủy viên BCH Trung ương Đảng được bầu lại giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Đại hội khẳng định tiếp tục đổi mới và phát huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt của Hội, tổ chức, động viên giai cấp nông dân phát huy nội lực, cần kiệm xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

5.4. Đại hội lần thứ IV (nhiệm kỳ 2003 - 2008)

Đại hội được tổ chức từ ngày 22/11 - 25/11/2003 tại Cung Văn hóa Hữu nghị, Hà Nội. Tham dự Đại hội có 860 đại biểu đại diện cho 8.173.238 hội viên cả nước. Đại hội đã bầu 120 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Vũ Ngọc Kỳ - Ủy viên BCH Trung ương Đảng được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Chủ đề Đại hội là ''Đoàn kết - Đổi mới - Dân chủ - Phát triển''. Đại hội đã xác định phương hướng là: Xây dựng Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt, là trung tâm, nòng cốt trong phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới; nâng cao vai trò đại diện của giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

5.5. Đại hội lần thứ V (nhiệm kỳ 2008 - 2013)

Đại hội đã được tổ chức từ ngày 22/12 - 25/12/2008 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình - Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.175 đại biểu đại diện cho 9.563.577 hội viên. Đại hội đã bầu 124 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Nguyễn Quốc Cường - Ủy viên BCH Trung ương Đảng tái đắc cử giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Chủ đề Đại hội: “Đoàn kết - Đổi mới - Hội nhập - Phát triển”. Đại hội đã xác định phương hướng là: “Đoàn kết, năng động, sáng tạo, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh, là chủ thể trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; Hội Nông dân vững về chính trị, mạnh về tổ chức, thống nhất về hành động, là trung tâm và nòng cốt trong phong trào nông dân, góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới…”.

5.6. Đại hội lần thứ VI (nhiệm kỳ 2013 - 2018)

Đại hội được tổ chức từ ngày 30/6 - 03/7/2013 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình - Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.169 đại biểu thay mặt cho 9.913.432 hội viên cả nước. Đại hội đã bầu 122 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Nguyễn Quốc Cường, Ủy viên BCH Trung ương Đảng được tái cử giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Chủ đề Đại hội: “Đoàn kết - Đổi mới - Chủ động - Hội nhập - Phát triển bền vững”. Đại hội xác định phương hướng: Phát huy vai trò trung tâm và nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới; đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động theo hướng kết hợp chặt chẽ công tác tập hợp, tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân, tham gia xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; giám sát, phản biện xã hội và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với đẩy mạnh hợp tác tăng cường các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ và dạy nghề, đáp ứng nhu cầu và lợi ích thiết thực của hội viên, nông dân. Trực tiếp và phối hợp thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở nông thôn...

Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ thứ 8 (khóa VI), họp ngày 24/6/2016 tại Hà Nội đã bầu đồng chí Lại Xuân Môn - Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Thường trực giữ chức Chủ tịch BCH Trung ương Hội Nông dân Việt Nam thay đồng chí Nguyễn Quốc Cường được Bộ Chính trị cho nghỉ hưu; tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam lần thứ 13 (Khóa VI), họp ngày 12/01/2018, tại Hà Nội đã bầu đồng chí Thào Xuân Sùng, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam thay đồng chí Lại Xuân Môn được Bộ Chính trị bố trí công tác mới.

 5.7. Đại hội lần thứ VII (nhiệm kỳ 2018 – 2023)

 Đại hội được tổ chức từ ngày 11 - 13/12/2018 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình - Hà Nội. Tham dự Đại hội có 999 đại biểu đại diện cho 10.192.865 hội viên cả nước. Đại hội vinh dự được đón tiếp các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước: Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân; Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, đại diện các ban, bộ, ngành trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, các cơ quan thông tấn báo chí. Đại hội đã bầu 119 uỷ viên Ban Chấp hành; Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khoá VII họp ngày 12/12/2018 tại Hà Nội đã bầu 21 uỷ viên Ban Thường vụ; đồng chí Thào Xuân Sùng, Uỷ viên BCH Trung ương Đảng tái đắc cử giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam; Ngày 29/5/2021, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khóa VII đã bầu đồng chí Lương Quốc Đoàn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Đảng đoàn, Phó Chủ tịch Thường trực Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân giữ chức chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam thay cho đồng chí Thào Xuân Sùng nghỉ chế độ.

II/ Hội Nông dân và phong trào Nông dân Thanh Hóa.

1. Hội Nông dân và Phong trào Nông dân Thanh Hóa trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân, đế quốc.

Thanh Hóa là tỉnh sớm có phong trào nông dân. Nông Hội đỏ ở Thanh Hóa được thành lập từ năm 1930, với 200 Hội viên ở một số làng thuộc các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Đông Sơn. Từ ngày thành lập đến nay, Hội Nông dân Thanh Hóa luôn là lực lượng nòng cốt trong các phong trào cách mạng của nông dân, nông thôn Thanh Hóa, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của nông dân Yên Trường đòi chia lại công điền, công thổ; cuộc đấu tranh của 600 nông dân Yên Định đòi trả tự do cho tù chính trị...

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đuổi Nhật toàn Tỉnh có 60 vạn thanh niên nông thôn vào bộ đội, hàng vạn nông dân tham gia thanh niên xung phong, 90% gia đình có con em nông dân đi bộ đội, trong đó có 3 vạn gia đình có từ 3 con trở lên trực tiếp chiến đấu tại các chiến trường. Riêng chiến dịch Điện Biện Phủ, Thanh Hóa đã đóng góp hàng ngàn tấn thực phẩm, hàng vạn tấn lương thực, đã huy động 12 vạn nông dân tham gia vận chuyển trên 50% số lương thực, thực phẩm phục vụ cho cả chiến dịch.

Trong kháng chiến chống Mỹ, nông dân Thanh Hóa đã cùng với quân dân trong tỉnh và các đơn vị bộ đội đóng trên địa bàn tổ chức chiến đấu giữ vừng nhịp cầu Hàm Rồng đập tan chính sách leo thang của đế quốc Mỹ, bắn rơi 376 máy bay, bắn chìm và bắn cháy 57 tàu chiến, tiêu diệt và bắt sống nhiều giặc lái...

2. Hội Nông dân và Phong trào  Nông dân Thanh Hóa trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng CNXH:

          Hội Nông dân Thanh Hóa đã bám sát chương trình, mục tiêu, nhiệm vụ công tác Hội của TW Hội Nông dân Việt Nam  để xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động và tổ chức các phong trào hành động cách mạng của nông dân.

Hội Nông dân Thanh Hóa đã khởi xướng phong trào gia đình nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi nay lại trở thành phong trào thi đua cách mạng của nông dân cả nước.

Nhiều năm gần đây, vai trò, vị trí của Hội Nông dân Tỉnh đã từng bước được khẳng định, hoạt động công tác Hội luôn luôn được xây dựng và củng cố; nội dung, phương thức hoạt động hướng về cơ sở và thường xuyên đổi mới

Nhiều hoạt động trong các phong trào thi đua của Hội phát động đã mang lại kết quả thiết thực cho cán bộ, Hội viên nông dân.

Với những đóng góp to lớn của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Tỉnh nhà vào quá trình xây dựng tổ chức Hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh. Nhiều năm liền Hội Nông dân Tỉnh được Chính phủ tặng cờ thi đua đơn vị dần đầu phong trào thi đua cả nước, được TW Hội tặng cờ đơn vị xuất sắc toàn quốc .... Nhiều huyện Hội, Hội nông dân  xã và một số hội viên nông dân được thưởng Huân chương lao động hạng 3, nhiều tập thể cá nhân của Hội được tặng bằng khen của TW Hội Nông dân Việt Nam, UBND tỉnh và các Bộ, Ngành TW.

Trải qua những chặng đường lịch sử đấu tranh của dân tộc, nhất là trong suốt 92 năm qua kể từ khi có Đảng lãnh đạo, giai cấp nông dân và Hội Nông dân Thanh Hóa luôn giữ vững ý chí sắt đá đấu tranh ngoan cường, đầy thử thách, hy sinh vì mục tiêu giải phóng dân tộc và bảo về nền độc lập của tổ quốc; cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp toàn diện, xây dựng nông thôn mới theo hướng CNH- HĐH.

          Từ ngày thành lập đến nay Hội Nông dân Thanh Hóa đã trải qua 10 kỳ Đại Hội.

          Đại Hội lần thứ I vào tháng 6/ 1947 và Đại Hội lần thứ 10 vào tháng 9 năm 2018.

VI. Hội Nông dân và phong trào  Nông dân Hà Trung.

Cùng với phong trào chung của cả nước Nông dân và tổ chức Hội nông dân huyện Hà Trung đã đi theo Đảng có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng.

Sau khi chi bộ Đảng cộng sản huyện Hà trung ra đời, các hội quần chúng cũng lần lượt được thành lập như Hội học chữ quốc ngữ ở làng bái sơn Hà Tiến, hội lợp nhà ở một số thôn xóm cũng được hình thành.

Tháng 3/1936, đồng chí Mai Tự Cường một Đảng viên trung kiên của Đảng về tổng Thanh Xá (nay thuộc xã Hà Lĩnh và xã Hà Sơn) tuyên truyền vận động quần chúng thành lập “Hội tương tế ái hữu” tiền thân của hội nông dân Hà Trung.

Trong  qu¸ tr×nh hoạt động qua nhiều làn đổi tên từ Hội tương tế ái hữu đến Hội nông dân cứu quốc, Hội nông dân tập thể, nay là Hội nông dân

Hội nông dân là lực lượng nòng cốt trong các giai đoạn cách mạng. 

Thời kỳ 1936-1945 Hội nông dân tham gia đấu tranh chống lại chế độ hà khắc của thực dân phong kiến dành nhiều tháng lợi, mở đầu là cuộc đấu tranh của phu mỏ Cô sơn thuộc tổng Thanh xá vào tháng 12/1936.

Tháng 6/1936 nông dân tổng thanh xá đấu tranh chống tăng thu thuế .

Tháng 7 năm 1943 nông dân Hà Bình đấu tranh chống lệnh giảm diện tích lúa để trồng đay, không nộp và bán bông cho Nhật.

Năm 1943-1944 nhiều cuộc đấu tranh chống bắt phu và đấu tranh dành bông, lạc trên xe của Nhật, tham gia bắt thuyền Than của giặc Nhật của Nông dân Hà Thanh trên sông báo văn

Trong cách mạng Tháng 8 Nông dân toàn huyện đã tham gia khởi nghĩa dành chính quyền ở các thôn, phủ, tổng

  Hội nông dân đã tập hợp, tổ chức giáo dục giai cấp nông dân địa phương gương mẫu tham gia xây dựng lực lượng dân quân, du kích, gom góp nhân tài, vật lực, xây dựng làng kháng chiến, tích cực tham gia phong trào tự vũ trang, đẩm bảo mỗi dân quân có một vũ khí tự tạo như giáo búp đa, mã tấu, gậy tre ...

Trong kh¸ng chiÕn chèng ph¸p thành tÝch đóng góp kháng chiến của nông dân huyện Hà trung là: Đã mua 3.524.272 đồng công trái quốc gia; 21.670.111 đồng công phiếu kháng chiến, 40.111kg thóc ủng hộ kháng chiến, 386,6 đồng cân vàng; 440 đồng cân bạc 22.111 kg đồng và số tiền 1486 đồng; có 1.377 người tham gia quân đội, 2532 người tham gia bộ đội địa phương, 48.308 người đi dân công hỏa tuyến, vận chuyển được 4235.350 kg hàng hóa, đóng góp 435.564 kg gạo, 54 con trâu bò và nhiều thực phẩm khác...Trong kháng chiến chống mỹ có 14.774 thanh niên nhập ngũ, 1.589 thanh niên xung phong, 6.734 người đi dân công hỏa tuyến, đóng góp  trên 6,6 vạn tấn lương thực, 163 ngôi nhà, bắn rơi 3 máy bay, bắt sống 8 giặc lái.

Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hôi, nhiều điển hình tiên tiến của nông dân đã xuất hiện các hợp tác xã như Hà Châu, Hà Toại, Hà Tân, Hà Lĩnh (thời kỳ 1970-1985) là những điển hình ttiên tiến trong sản xuất nông nghiệp  

Trong thời kỳ đổi mới Hội nông dân Hà trung đã động viên giáo dục hội viên xây dựng quan hệ sản xuất mới làm nòng cốt trong các phong trào nông dân, giai cấp nông dân vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào công cuộc đổi mới.

  Hội nông dân Hà Trung luôn đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của mình, xây dựng và củng cố tổ chức Hội ngày càng vững mạnh, Hội đã tích cực đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, hỗ trợ nông dân như tín chấp vay vốn, của Ngân hàng NNo&PTNT, ngân hàng CSXH số tiền trên 468 tỷ đồng cho 6973 hộ vay để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo. Dịch vụ hàng nghìn tấn phân bón trả chậm cho nông dân, hàng chục tấn giống cây, con. Tập huấn và chuyển giao kỹ thuật cho hàng chục nghìn hội viên nông dân. Xây dựng các mô hình, điển hình sản xuất kinh doanh giỏi, hăng hái tham gia chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu mùa vụ, cơ cấu vật nuôi, cây trồng. Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, trọng tâm là phong trào hộ gia đình nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng; phong trào xây dựng nông thôn mới, phong trào đảm bảo an ninh quốc phòng. Góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn huyện nhà ngày càng tiến bộ. Đời sống vật chất, tinh thần được nâng lên, dân chủ trong nông thôn được phát huy, An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ vững.

Từ khi thành lập đến nay HND Hà Trung đã trải qua 11 kỳ đại hội.

Đại Hội lần thứ nhất vào năm 1973; Đồng chí Nguyễn Văn Do được bầu làm chủ tịch hội nông dân huyện.

Đại Hội lần thứ 11 được tổ chức vào ngày 29 tháng 6/2018 đại hội đó bầu 29 đồng chớ ủy viên BCH huyện hội; Đồng chí Mai Đức Sơn được bầu làm chủ tịch hội nông dân huyện.

Qua mỗi kỳ đại Hội hội nông dân huyện nhà không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Hiện nay 20 xã, thị trấn đều có tổ chức Hội với 143 chi hội và 15.880 hội viên tỷ lệ tập hợp đạt 114,2% so hộ nông nghiệp.

VII. Hội nông dân và phong trào nông dân Hà Long.

Sau cách mạng tháng 8/1945 thành công; với 3 nhiệm vụ giệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nông dân Hà Long đã tin tưởng vào Đảng và Hồ chủ tịch tham gia hưởng ứng sôi nổi bằng những hoạt động thiết thực như phong trào “ nhường cơm xẻ áo”, “tương thân tương ái” diễn ra khắp các thôn xóm; tham ra cuộc vận động “ ai ơi chớ bỏ ruộng hoang”, “ tấc đất, tấc vàng”, đẩy mạnh tăng gia sản xuất nhờ đó nại đói ở Hà Long từng bước được đẩy lùi. Năm 1946 hưởng ứng phong trào do chính phủ phát động nông dân và nhân Hà Long đã tự nguyện góp 7 đồng cân vàng trong “ tuần lễ vàng”, 160 Kg đồng và 13.320 đồng vào “quỹ mua súng”; trong phong trào “hũ gạo kháng chiến” nông dân và nhân dân Hà Long đã đóng góp được 330 kg; phong trào “ công trái quốc gia” đã thu được 653.364 đồng, 75.800 đồng đã được dành để mua “công phiếu kháng chiến”; hưởng ứng phong trào bán lúa để “Hồ chủ tịch khao quân” nông dân toàn xã đã bán được 3.860 kg; có 1.482 lượt người tham gia trong 143 đợt dân công phục vụ cho các chiến trường, với 60 nghìn ngày công trong 9 năm tham gia kháng chiến chống pháp.

Trong kháng chiến chống mỹ cứu nước các thế hệ nông dân Hà Long dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đóng góp nhiều sức người, sức của cho kháng chiến thành công, đã có 680 người tham gia bộ đội chủ lực, 215 người tham gia thanh niên xung phong, 41 người đi dân công hỏa tuyến; đóng góp 1.300 tấn lương thực, 250 tấn thịt lơn hơi; ủng hộ bộ đội đóng tại địa phương 350 kg gạo, 380 kg gà, vịt, 700 đồng bạc, 2 tấn rau xanh, 800 chiếc bánh chưng, 60 kg chè xanh, gần 3 tạ giẻ lau pháo…

Trước những năm 1970 với diện tích tự nhiên 4.726 ha mà diện tích canh tác chỉ có 467 ha, sản lượng lương thực năm cao nhất cũng chỉ đạt 947 tấn; để đáp ứng yêu cầu bức thiết của sản xuất đầu năm 1970 nông dân đã tham ra xây dựng đập Bến Quân trên thượng nguồn sông Long Khê, năm 1972 Hồ Bến Quân hoàn thành có trữ lượng nước khoảng 2 triệu m³ . Năm 1992 tiến hành thi công lần 3 và đã thành công Đập Đồm Đồm trên sông Vạn Bảo, bao gồm cả đập và cống đập hồ chứa nước rộng khoảng 7 ha; từ khi có hồ Bến Quân và đập Đồm Đồm sản xuất phát triển, ruộng cấy từ 1 vụ tăng lên 2-3 vụ, năng xuất cây trồng tăng gấp đôi, gấp ba, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao.

 Trong thời kỳ đổi mới các cấp Hội Nông dân từ xã đến thôn luôn phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, làm tốt công tác tuyên truyền tuyên truyền giáo dục, góp phần nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương; tạo sự đồng thuận về tư tưởng, thống nhất về hành động trong cán bộ, hội viên nông dân, góp phần tạo nên những thành tích ấn tượng trong phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở địa phương. Đến nay Hội xã có 9 chi hội với trên 1.575 Hội viên đạt 93% so với hộ làm nông nghiệp. Các cấp hội đã không ngừng nâng chất lượng hoạt động, phát huy vai trò trung tâm, nòng cốt của tổ chức Hội và hội viên trong phong trào nông dân và thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; tích cực thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội góp phần xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nông dân. Đẩy mạnh phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững; các hoạt động hỗ trợ dạy nghề, tập huấn hướng dẫn sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi, chuyển giao các ứng dụng tiến bộ của khoa học vào sản xuất, thành lập các tổ hợp tác, HTX liên kết trong nông nghiệp; hướng dẫn lập thủ tục tạo điều kiên cho hội viên nông dân được tiếp cận với nguồn vốn vay của 02 Ngân hàng với số tiền trên 71 tỷ đồng cho 718 hộ vay, Cung ứng hàng trăm tấn phân bón chậm trả cho Hội viên nông dân.Với những kết quả đó Hội nông dân xã được Đảng, Chính quyền và Hội cấp trên khen thưởng tặng nhiều giấy khen, Được TW Hội Nông dân Việt Nam tặng Bằng khen trong năm 2012; Được BCH Hội nông dân tỉnh Thanh Hóa tặng Bằng khen các năm 2015, 2018, 2020.

Hôm nay nhân ngày truyền thống vẻ vang của Hội, chúng ta bồi hồi xúc động tưởng nhớ đến công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vỹ đại, các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc và nhng đóng góp to lớn của giai cấp nông dân và Hội nông dân trong 92 năm qua.  Để xứng đáng với truyền thống của Hội; Mỗi cán bộ, hội viên, nông dân Hà Long sẽ tích cực lao động, sáng tạo, ra sức xây dựng Hội vững mạnh, xứng đáng là trung tâm và nòng cốt trong phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội  mà Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVIII nhiệm kỳ 2020-2025 đã đề ra; nhanh chóng xây dựng xã Hà Long sớm trở thành đô thị loại V trước năm 2025; cùng với các cấp Hội và nông dân cả nước xây dựng Hội Nông dân Việt Nam ngày càng vững mạnh, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trường trường quốc tế.

    Kỷ niệm 92 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam  là dịp để cán bộ, hội viên, nông dân cùng nhân dân cả nước ôn lại truyền thống cách mạng vẻ vang của tổ chức Hội và giai cấp nông dân Việt Nam; cổ vũ, động viên cán bộ, hội viên, nông dân ra sức thi đua, phát huy vai trò, trách nhiệm của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hòa bình, thịnh vượng.

 

                                           BAN CHẤP HÀNH HỘI NÔNG DÂN XÃ HÀ LONG